Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm là một vị thầy đáng kính không chỉ đối với sư Giác Mai mà còn cả các thế hệ Phật tử chùa Đa Bảo, thầy là người dấn thân, bước từng bước chân trên dốc núi cao để đặt viên đá đầu tiên cho chùa Đa Bảo, trợ duyên cho người đệ tử thân thương Giác Mai.
---
KHAI SƠN
Vần Kệ Ngân Đưa
thầy Thích Giác Mai
Rừng thiền núi vắng một mình
Quyết lòng vì đạo, biết bao đoạn trường
Nhịn ăn, nước uống cũng không
Ba tháng nhập định, quên đi tuổi đời
Thắng được nội ngoại ác ma
Gánh nước về non, núi đá chập chùng
Hai vai gánh nặng chuối, xoài
Đổi lấy xi-măng vác nặng về non
Đào giếng, đập đá đêm ngày
Mẻ văng vào thịt máu hồng tuôn rơi
Bao năm khổ hạnh không sờn
Đào xong giếng nước Hoà Thượng quan lâm
Đặt đá hiệu Đa Bảo chùa
Hoà Thượng thượng Trí hạ Nghiêm trao truyền
Bao năm khổ hạnh vui chịu
Nay đà hợp pháp núi thiên ửng hồng
Con Phật chẳng quảng gian nan
Trong gian nan ấy là đàn tiến tu
Nằm gai, nếm mật trời không
Sơn bao thủy bọc, một mình trăng sao
Tấm thân nhỏ bé một lòng
Sống vì non nước đất trời Việt Nam
Tốt đời, đẹp đạo màu xanh
Cùng chung đất nước, quê hương tuyệt vời
Tình vô tận, quả đất tròn
Cầu cho thế giới thái bình lạc an
Muôn vật hưởng được tình chung
Mưa ban nắng đẹp, cỏ cây reo mừng
---
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003)
Tóm lược
Suốt cuộc đời, từ khi xuất gia hành đạo cho đến lúc viên tịch, Ngài đã nỗ lực không ngừng trong công việc xiễn dương đạo pháp. Cuộc đời Ngài là một tấm gương sáng ngời về đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa cho Tăng ni và Phật tử noi theo. Mặc dù sắc thân của Ngài không còn nữa nhưng đạo hạnh và sự nghiệp hoằng hóa của Ngài sẽ mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho tăng ni phật tử hậu lai.
Thân thế
Trưởng lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm thế danh là Phan Diệp, sinh ngày 9 tháng Giêng năm Tân Hợi (1911) tại thôn Chánh Lộc, xã Xuân Lộc, huyện Đồng Xuân, (thuộc huyện Sông Cầu ngày nay), tỉnh Phú Yên. Thân phụ là Cụ Ông Phan Châm. Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Tham. Ngài là người con thứ hai trong gia đình có năm anh chị em. Gia đình Ngài là một gia đình có truyền thống nhiều đời uy tín Tam bảo.
Xuất gia tu học
Ngài húy thượng Tâm hạ Bổn, tự là Truyền Lai, hiệu là Trí Nghiêm dòng Lâm Tế đời thứ 43.
Năm 15 tuổi (1926) xuất gia thọ giới với Ngài Vĩnh Hảo Đại Sư (cũng là cậu ruột của Ngài) tại chùa Phước Long, xã Xuân Lộc, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
Năm 22 tuổi (1933), Ngài thọ Đại giới, tại Giới đàn chùa Bảo Sơn Phú Yên do Hòa thượng Vạn Ân làm Đàn đầu.
Năm 27 tuổi (1938) Ngài được trúng tuyển vào tu học tại Phật Học Đường Bảo Quốc Huế.
Đạo nghiệp
Năm 1944 (34 tuổi), sau khi mãn học, Ngài đã bắt đầu công việc hoằng hóa bằng việc lưu hành diễn giảng Giáo lý tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên…
Năm 1945 (35 tuổi), Ngài trở về Phú Yên làm trụ trì chùa Thiên Tôn ở Tuy An 9 năm. Trong thời gian này Ngài đã tham gia Phật giáo Cứu Quốc thuộc liên khu V.
Năm 1955 Ngài lại tiếp tục công cuộc hoằng hóa, chuyên lo giảng dạy Phật Pháp tại các Tỉnh Hội Phật Học: Phú Yên, Khánh Hòa. Lúc này Ngài được coi là vị Giảng sư kỳ cựu của Hội Phật Học Miền Trung.
Năm 1956, Ngài chủ trương xây dựng Trường Bồ Đề Tuy Hòa và Cô nhi viện Phước Điền Tuy Hòa, Phú Yên.
Năm 1957, theo thỉnh cầu của Giáo hội, Ngài ra giữ chức Hội Trưởng Hội Phật Học Thừa Thiên Huế.
Năm 1960, Ngài vào thường trú để lo Phật sự tại chùa Long Sơn, trụ sở Tỉnh Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa Nha Trang hiện nay.
Năm 1964, Ngài là thành viên của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất.
Năm 1966, Ngài giữ chức Chánh Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thống nhất Khánh Hòa - Nha Trang.
Năm 1968, Ngài là Chứng Minh Đạo sư của Tỉnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất Khánh Hòa - Nha Trang.
Năm 1973, Ngài làm Giáo Thọ tại Đại giới đàn Phước Huệ Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang.
Năm 1974, Ngài làm giám luật Ban Quản trị Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha Trang.
Năm 1977, Ngài được Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đệ nhị Tăng Thống GH. PG. VN. TN. tấn phong Hòa thượng.
Từ năm 1981, Ngài là Chứng minh Ðạo sư của tỉnh Giáo hội Phật giáo Khánh Hòa.
Năm 1993, 1997, 2001, Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng, Đại giới đàn Trí Thủ tại Nha Trang, Khánh Hòa.
Năm 1996, Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng, Đại giới đàn Thiện Hòa, tại Đại Tòng Lâm, Bà Rịa, Vũng Tàu.
Phiên dịch Kinh Luận:
Mặc dù bận nhiều Phật sự về lãnh đạo và hoằng hóa, nhưng Ngài vẫn tinh tấn chăm lo phiên dịch kinh luận để tiếp dẫn hậu lai.
Kinh Lời Vàng: Nguyên danh kinh là "Phật Giáo Thánh kinh", 1 quyển, do nữ cư sĩ Trung Hoa là Dương Tú Hạc biên soạn.
Kinh Phổ Môn giảng lục: 1 quyển, do Bảo Tịnh Pháp Sư giảng (dịch năm 1969).
Kinh Pháp Hoa giảng lục: 1 bộ, 7 quyển, 2 tập, do Thái Hư Pháp Sư giảng (dịch năm 1969)
Luận Thành Thật: 20 quyển, do Ha Lê Bạt Ma Tát soạn.
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa 24 tập, 600 quyển, 5 triệu chữ (5.000.000), do Huyền Trang Hán dịch. Khởi dịch từ năm 1973 đến năm 1980 mới hoàn tất.
---
#thichgiacmai #vankengandua #thichtringhiem #kinhdaibatnha #chuadabaonhatrang #nhatrang
Информация по комментариям в разработке